Vương quốc Anh và Bulgaria trên những con đường kinh tế khác biệt trong một châu Âu đang thay đổi

    by VT Markets
    /
    Jun 13, 2025

    Câu chuyện của hai châu Âu đang diễn ra. Trong khi Vương Quốc Anh đang vật lộn với những hậu quả kinh tế lâu dài từ việc rời khỏi Liên minh Châu Âu, thì những quốc gia như Bulgaria lại đang tiến theo hướng ngược lại, tìm cách tích cực hơn trong việc hội nhập và điều chỉnh kinh tế với khối bằng cách chấp nhận đồng euro.

    Dữ liệu gần đây nhấn mạnh những khác biệt rõ rệt trong quỹ đạo của hai quốc gia này, một cái thì đang phải đối mặt với chi phí của sự chia ly và cái còn lại thì đang đặt cược vào tương lai của sự hội nhập.

    Trong những năm gần đây, Châu Âu đã chứng kiến các biến đổi kinh tế và xuyên biên giới sâu sắc. Điển hình là sự ra đi của Vương Quốc Anh khỏi Liên minh Châu Âu, sau cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 6 năm 2016.

    Kể từ đó, các nhà phân tích và kinh tế gia gần như đã đồng ý rằng Brexit đã tạo ra những chi phí kinh tế lâu dài cho Vương Quốc Anh – từ việc giảm thu nhập hộ gia đình đến lạm phát kéo dài và sự co lại kinh tế dài hạn của GDP.

    Ngân hàng Tài chính Vương Quốc Anh dự đoán rằng nền kinh tế sẽ nhỏ hơn 3.9% trong vòng 15 năm so với nếu quốc gia này vẫn ở trong EU.

    Nhìn vào hiệu suất kinh tế của Vương Quốc Anh từ năm 2016 cho thấy một giai đoạn biến động tiếp theo là một sự chậm lại đáng kể. Tăng trưởng GDP hàng năm là 1.9% vào năm 2016 và 2.7% vào năm 2017, trước khi giảm xuống còn 1.4% vào năm 2018 và 1.6% vào năm 2019. Đại dịch COVID-19 đã gây ra một sự co lại mạnh mẽ 10.3% vào năm 2020, tiếp theo là một sự phục hồi mạnh mẽ 8.6% vào năm 2021.

    Tăng trưởng tiếp tục ở mức 4.8% vào năm 2022, nhưng sau đó giảm mạnh xuống chỉ còn 0.4% vào năm 2023 (một số nguồn cho biết là 0.1%). Mô hình này gợi ý rằng nền kinh tế Vương Quốc Anh có thể đã ổn định trên một “đỉnh gồ ghề” sau một sự phục hồi hình chữ V ban đầu từ cú sốc đại dịch.

    Vương Quốc Anh cũng đã phải đối mặt với áp lực lạm phát đáng kể. Chỉ số giá tiêu dùng hài hòa (HICP) ghi nhận sự gia tăng hàng năm 9.1% vào năm 2022 và 7.3% vào năm 2023. Trong khi lạm phát đã giảm xuống còn 2.5% cho năm 2024 và được ghi nhận ở mức 3.5% vào tháng 4 năm 2025, giai đoạn lạm phát cao đã có tác động đáng kể.

    So với đó, lạm phát HICP của Khu vực Euro là 8.4% vào năm 2022, 5.4% vào năm 2023, và 2.4% vào năm 2024. Đức có tỷ lệ thậm chí cao hơn là 8.7%, 6.0%, và 2.5% tương ứng, trong khi Pháp ghi nhận 5.9%, 5.7%, và 2.3% cho những năm đó.

    Việc thực hiện Thỏa thuận Thương mại và Hợp tác (TCA) vào tháng 1 năm 2021 đã dẫn đến một sự giảm sút ngắn hạn trong xuất khẩu hàng hóa toàn cầu của Vương Quốc Anh 6.4% và nhập khẩu toàn cầu giảm ít nhất 3.1%. Điều này chủ yếu do sự sụt giảm 13.2% trong xuất khẩu hàng hóa của Vương Quốc Anh sang EU.

    Đáng chú ý, sự sụt giảm này trong thương mại với EU chủ yếu được gánh vác bởi các công ty nhỏ hơn; nhóm nhỏ nhất trong các công ty đã chứng kiến xuất khẩu sang EU giảm 30%, trong khi các công ty lớn nhất không gặp phải sự giảm sút đáng kể nào.

    Không có bằng chứng cho thấy TCA gián tiếp ảnh hưởng đến xuất khẩu của Vương Quốc Anh sang phần còn lại của thế giới, cho thấy sự giảm trong xuất khẩu sang EU tạo thành một mất mát ròng trong giai đoạn được nghiên cứu. Dữ liệu hàng tháng có thể rất dao động; ví dụ, vào tháng 3 năm 2025, tổng xuất khẩu hàng hóa của Vương Quốc Anh đã tăng 0.8%, với xuất khẩu sang EU tăng 1.6%.

    Bulgaria đặt cược vào đồng Euro

    Trái ngược rõ rệt, các quốc gia như Bulgaria đang thực hiện các bước quyết đoán để làm sâu sắc hơn sự hội nhập của mình trong EU. Bằng cách tìm cách gia nhập Khu vực Euro, Bulgaria không chỉ đang điều chỉnh gần gũi hơn với Brussels mà còn chấp nhận một bản sắc tiền tệ tập thể.

    Bulgaria đã nhận được sự chấp thuận từ cả Ủy ban Châu Âu và Ngân hàng Trung ương Châu Âu để gia nhập Khu vực Euro, có khả năng trở thành thành viên thứ 21 của khối. Chính phủ đặt mục tiêu ngày gia nhập vào ngày 1 tháng 1 năm 2026.

    Thủ tướng Bulgaria, Nikolai Denkov, đã tuyên bố việc gia nhập Khu vực Euro là một ưu tiên hàng đầu của chính phủ, vì tiềm năng của nó trong việc củng cố sự ổn định vĩ mô và kích thích tăng trưởng.

    Kinh tế Bulgaria đã thể hiện sự kiên cường, với GDP thực kiểm soát tăng 2.8% trong năm 2024 (các ước tính khác gợi ý 2.3%). Dự báo cho năm 2025 dự kiến tăng trưởng từ 2.0% đến 2.4%, và khoảng từ 2.1% đến 2.7% trong năm 2026.

    Tuy nhiên, quyết định này không nhận được sự đồng thuận phổ quát. Một cuộc khảo sát Eurobarometer vào cuối tháng 5 năm 2025 cho thấy ý kiến công chúng gần như chia đều, với mức ủng hộ và phản đối đều khoảng 50%. Một cuộc khảo sát Alpha Research vào tháng 6 năm 2025 chỉ ra rằng 46.5% công chúng và 66% doanh nghiệp ủng hộ việc gia nhập.

    Nhiều người Bulgaria – đặc biệt là những người ở vùng nông thôn và những khu vực kinh tế dễ tổn thương – lo sợ rằng việc chuyển sang euro sẽ khiến giá cả tăng vọt và làm giảm sức mua của họ.

    Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng những tác động lạm phát này có khả năng sẽ rất ít. Lạm phát HICP ở Bulgaria đã giảm xuống 2.6% vào năm 2024 và tính đến tháng 4 (trong bối cảnh đánh giá tháng 6 năm 2025), mức trung bình 12 tháng là 2.7%, chỉ dưới mức tỷ lệ tham chiếu có thể là 2.8% để đạt tiêu chí ổn định giá. Ủy ban Châu Âu dự báo lạm phát HICP ở mức 3.6% cho năm 2025 trước khi giảm xuống 1.8% vào năm 2026.

    Hơn nữa, đồng tiền của Bulgaria, lev, đã được neo với đồng euro ở mức cố định khoảng 1.95583 leva cho một euro thông qua một cơ chế hội đồng tiền tệ từ cuối những năm 1990. Điều này có nghĩa là quá trình chuyển giao mang tính biểu tượng hơn là cấu trúc, và sự biến động giá cả là không có khả năng xảy ra.

    Kinh nghiệm của Croatia, quốc gia đã áp dụng euro vào tháng 1 năm 2023, cho thấy tác động lạm phát “tối thiểu” và “tạm thời”, ước tính bởi Eurostat là từ 0.04 đến 0.20 điểm phần trăm mỗi tháng vào đầu năm 2023.

    Một cái nhìn sâu sắc hơn về tác động kinh tế

    Gia nhập Khu vực Euro sẽ đặt Bulgaria dưới sự giám sát của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), củng cố các tổ chức tài chính của nó và neo giữ lòng tin của nhà đầu tư. Sự chuyển giao này dự kiến sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải thiện hồ sơ tín dụng quốc tế của Bulgaria.

    Luồng FDI tương đương với 2.8% GDP vào năm 2024 theo một cuộc khảo sát, mặc dù Ngân hàng Quốc gia Bulgaria báo cáo sự chậm lại, với FDI tăng thêm 1.498 tỷ euro vào năm 2024, giảm từ 3.284 tỷ euro vào năm 2023.

    Các cơ quan đánh giá tín dụng quốc gia có triển vọng tích cực liên quan đến việc gia nhập Khu vực Euro: S&P Global Ratings xác nhận Bulgaria ở mức ‘BBB/A-2’ với Triển vọng Tích cực vào tháng 5 năm 2025; Moody’s xác nhận xếp hạng ‘Baa1’ với Triển vọng Ổn định vào tháng 1 năm 2025, dự báo việc áp dụng euro vào tháng 1 năm 2026; và Fitch Ratings xác nhận Bulgaria ở mức ‘BBB’ với Triển vọng Tích cực vào tháng 4 năm 2025.

    Việc gia nhập Khu vực Euro có thể ảnh hưởng tích cực đến xếp hạng quốc gia của một quốc gia lên tới 1.19 bậc và cải thiện điều kiện vay.

    Hơn nữa, mối liên kết kinh tế ngày càng sâu sắc của Bulgaria với EU đã rõ ràng. Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2024, xuất khẩu sang EU đạt 22,176.3 triệu BGN, chiếm khoảng 64.9% tổng xuất khẩu toàn cầu của Bulgaria là 34,145.7 triệu BGN.

    Vào năm 2023, các đối tác thương mại chính của Bulgaria trong EU là Đức (13.7% tổng xuất khẩu), Romania (9.2%), Ý (7.2%), Hy Lạp (5.5%) và Pháp (3.3%). Năm đối tác hàng đầu này chiếm trên 40% tổng xuất khẩu của Bulgaria.

    Phần lớn xuất khẩu của Bulgaria được đề nghị sang các quốc gia EU khác, với thương mại chủ yếu tập trung vào máy móc, hàng hóa chế tạo và sản phẩm thực phẩm. Dữ liệu gần đây cho quý 1 năm 2025 cho thấy sự tăng trưởng đáng kể trong xuất khẩu ‘Thực phẩm và động vật sống’ sang EU (tăng 32.2%), trong khi các giai đoạn khác cho thấy sự tăng trưởng trong ‘Nhiên liệu khoáng, chất bôi trơn và vật liệu liên quan’ hoặc ‘Đồ uống và thuốc lá’.

    Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang Đức vào năm 2023 bao gồm quặng kim loại quý và xe máy, trong khi sang Romania là khí dầu mỏ và điện. Việc áp dụng euro sẽ loại bỏ chi phí chuyển đổi tiền tệ và tạo điều kiện cho giao dịch xuyên biên giới thuận lợi hơn.

    Du lịch và Luồng tiêu dùng

    Du lịch là một lĩnh vực khác đang chuẩn bị cho sự phát triển. Bulgaria ngày càng khẳng định mình là một điểm đến du lịch bốn mùa, cung cấp kỳ nghỉ trên biển vào mùa hè và các khu nghỉ dưỡng trượt tuyết vào mùa đông. Năm 2024, đất nước đã chào đón hơn 13 triệu du khách nước ngoài. Một nguồn khác tập trung vào số khách du lịch cho biết 5.79 triệu lượt khách từ nước ngoài vào năm 2024, trong đó có 3.0 triệu (51.8%) đến từ các quốc gia EU khác.

    Vào năm 2023, các thị trường nguồn chính trong Khu vực Euro bao gồm Hy Lạp (1,109,412 lượt khách) và Đức (897,480 lượt khách). Cùng nhau, sáu quốc gia chính trong Khu vực Euro (Hy Lạp, Đức, Pháp, Hà Lan, Áo, Ý) chiếm khoảng 2.76 triệu lượt khách vào năm 2023, tương đương khoảng 21.8% tổng số lượt đến trong năm đó.

    Bulgaria cũng đứng trong nhóm năm quốc gia EU hàng đầu về sự tăng trưởng trong số đêm lưu trú của khách du lịch trong quý 2 năm 2024 (tăng 6.3% so với quý 2 năm 2023), với du lịch vào nước chiếm 55% số đêm lưu trú này. Việc áp dụng euro có khả năng sẽ tiếp tục làm đơn giản hóa việc chi tiêu cho khách du lịch EU, loại bỏ những trở ngại về tỷ giá hối đoái và khuyến khích luồng tiêu dùng lớn hơn.

    Bắt đầu giao dịch ngay bây giờ — nhấp vào đây để tạo tài khoản VT Markets trực tiếp của bạn.

    see more

    Back To Top
    Chatbots